Thắng Lợi Của Cuộc Kháng Chiến Chống Thực Dân Pháp Gắn Liền Với Đường Lối

Thắng Lợi Của Cuộc Kháng Chiến Chống Thực Dân Pháp Gắn Liền Với Đường Lối

Trình chiếu phim tư liệu “Hà Nội – Ngày trở về chiến thắng” tại lễ khai mạc triển lãm trực tuyến “Hỡi đồng bào Thủ đô!”. Ảnh: Huyền Thương

Trình chiếu phim tư liệu “Hà Nội – Ngày trở về chiến thắng” tại lễ khai mạc triển lãm trực tuyến “Hỡi đồng bào Thủ đô!”. Ảnh: Huyền Thương

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ VIỆC KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

Giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ là cuộc chạy đua nước rút quyết liệt nhất, cuộc đấu trí, đấu lực gay gắt nhất giữa nhân dân Việt Nam và thực dân Pháp xâm lược trên con đường đi tới bàn đàm phán hòa bình ở Giơnevơ (Genève) để kết thúc chiến tranh. Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ là hai sự kiện kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam, góp sức cùng nhân loại làm cho thế kỷ XX trở thành Thế kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân (décolonisation).

1. Thắng lợi quân sự và thiện chí của chính phủ và nhân dân Việt Nam mở hướng đi tới một cuộc đàm phán hoà bình. Từ khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, với quan điểm nhân đạo và hoà bình, Chính phủ Việt Nam chủ trương giải quyết xung đột thông qua thương lượng. Đây là lập trường nhất quán của Chính phủ và nhân dân Việt Nam ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Vì thế Chính phủ Việt Nam đã chủ động đàm phán và nhân nhượng cho thực dân Pháp nhiều quyền lợi, thể hiện qua Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 và Tạm ước ngày 14 tháng 9 (1946). Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Khi chiến tranh đã bùng nổ, Chính phủ Việt Nam vẫn nỗ lực vãn hồi hoà bình, Chủ tịch Chính phủ nhiều lần gửi thư đến Quốc hội, Chính phủ và nhân dân Pháp đề nghị ngưng chiến để đàm phán, nhưng khi đó thực dân Pháp đang nuôi hy vọng giành thắng lợi bằng quân sự. Những nỗ lực ngoại giao của Việt Nam không được đáp ứng. Dân tộc Việt Nam hiểu rằng chỉ có thể giành độc lập tự do khi nào làm thất bại được những âm mưu quân sự của bọn xâm lược Pháp. Thắng lợi quân sự là cơ sở thực lực cho đấu tranh ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Thực lực như cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn". Sẽ không thể giành được thắng lợi trên bàn đàm phán nếu không có thắng lợi trên chiến trường. Đàm phán và nhân nhượng không phải là sự nhu nhược. Một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh. "Đã phải đánh thì kiên quyết đánh"[1], dân tộc Việt Nam vùng dậy kháng chiến vì độc lập tự do với tinh thần "Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"[2]. Với niềm tin "Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta"[3], dựa vào tinh thần hăng hái của toàn dân để giải quyết những thiếu thốn về vật chất, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh kiên quyết phát động cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện với phương châm chiến lược đánh lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã từng bước giành thắng lợi, nhất là từ Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, với thế tiến công chiến lược ngày càng phát triển, lực lượng vũ trang ba thứ quân trưởng thành, hậu phương kháng chiến đuợc xây dựng và củng cố vững mạnh. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam được sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, phối hợp với Đảng Cộng sản Pháp, kết hợp với phong trào bảo vệ hoà bình thế giới và phong trào phản chiến ở Pháp. So sánh lực lượng trên chiến trường thì tình hình ngày càng có lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, là lợi thế của Việt Nam trên bàn đàm phán. A. Patti (Archimedes L. A. Patti), nguyên sĩ quan tình báo Mỹ, nhận xét: "Ngày 13 tháng ba, Quân đội nhân dân Việt Nam dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tướng Giáp khởi đầu cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ. Cái pháo đài mới được tăng cường này đã có tầm quan trọng về chính trị và tâm lý hơn hẳn giá trị chiến lược thực tế của nó vì Hội nghị Giơnevơ sắp khai mạc. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thấy được một cách đúng đắn đây là một trận đánh có tính chất quyết định, không phải chỉ nhằm giành được một chiến thắng vang dội mà sẽ làm cho họ mạnh hẳn lên, họ đã chuẩn bị bao vây cứ điểm này Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng còn nhằm đánh cho quân đội Liên hiệp Pháp một đòn chí tử để gây tác động tâm lý đối với nước Pháp, làm nhân dân Pháp và những người chống cộng Việt Nam mất ý chí tiếp tục cuộc đấu tranh"[4]. Chủ trương của Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Nam trước sau như một là nỗ lực vãn hồi hoà bình, chủ trương giành thắng lợi về quân sự kết hợp với giải pháp ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến. Ngày 26-11-1953, trong bài trả lời điện phỏng vấn của chủ bút báo Tin nhanh (Expressen) của Thuỵ Điển, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nguyên nhân và tình hình cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tuyên bố lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: "... nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó". "Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam"[5]. Ngày 27-12-1953 ,Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra thông tri về lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhà báo Thuỵ Điển, nêu rõ: "Trong lịch sử, có nhiều cuộc chiến tranh do thương lượng hoà bình mà đi đến đình chiến". "Nhân dân ta chiến đấu chống bọn xâm lược là vì độc lập dân tộc, mà cũng vì hoà bình thế giới. Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kẻ thù của dân tộc ta, đồng thời cũng là kẻ thù của nhân dân thế giới". "Ngọn cờ hòa bình phải do tay ta nắm lấy và giương cao lên"[6]. Đảng Lao động Việt Nam chủ trương trong đàm phán hoà bình cần có sự nhân nhượng lẫn nhau: "Muốn đàm phán có kết quả thì ta phải nhân nhượng, nhưng nhân nhượng có chừng mực, trong nguyên tắc, và đối phương cũng phải nhân nhượng với ta". "Phải tránh tả khuynh, đặt yêu cầu quá cao cho cuộc đấu tranh ngoại giao, làm cho các cuộc đàm phán bị bế tắc. Nhưng cũng phải chống hữu khuynh, nhượng bộ cho địch quá mức, làm cho nhân dân chán nản và kẻ địch được đằng chân lân đằng đầu. Nguyên tắc căn bản về đấu tranh ngoại giao của ta là: 1- Kết hợp nguyên tắc tính rất cao với linh động tính đúng mức. 2- Yêu cầu của ta chủ yếu là căn cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và địch mà định. 3- Đặt vấn đề Đông Dương vào trong vấn đề bảo vệ hoà bình và dân chủ thế giới đặng giải quyết một cách thích đáng". Thiện chí hoà bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam mở hướng đi tới một cuộc đàm phán để kết thúc chiến tranh. 2. Thực dân Pháp thất bại cả về quân sự và chính trị, cần tới bàn đàm phán để kết thúc chiến tranh. Những năm 1946-1947, qua những lần tiếp xúc Việt - Pháp: Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt (4-1946), Hội nghị chính thức ở Phôngtennơblô (Fontainebleau) từ tháng 7-1946, Tạm ước ngày 14-9-1946, cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh và Hoàng Minh Giám với Paul Mus tại Việt Bắc (5-1947), phía Pháp ngoan cố bám giữ lập trường thực dân cũ, không chịu công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nước Việt Nam. Họ nuôi hy vọng giành thắng lợi bằng một cuộc chiến tranh thuộc địa, thậm chí chỉ bằng một cuộc hành quân chớp nhoáng. Việc đàm phán đối với họ chỉ là thủ đoạn để lấn dần từng bước và có thời gian chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Đối với thế lực phản động và hiếu chiến Pháp, Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 chẳng qua chỉ là một "hiệp định đổ bộ" (Accord de débarquement), cốt đạt được sự thoả thuận cho Pháp đưa quân ra miền Bắc Việt Nam. Sau tám năm, cuộc chiến tranh thuộc địa của Pháp ở Đông Dương ngày càng đi sâu vào "đường hầm không lối thoát". Kể từ Chiến dịch Thu Đông 1950 quân đội Pháp đã mất thế chủ động tiến công chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, ngày càng sa lầy trong một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn, bị đánh ở cả phía trước mặt và phía sau lưng. Ngay ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi quân Pháp có hệ thống chiếm đóng mạnh để vơ vét sức người sức của phục vụ chiến tranh xâm lược, cũng có tới hai sư đoàn chủ lực của Việt Minh thường xuyên hoạt động - một điều rất đặc biệt so với những cuộc chiến tranh ở Trung Quốc và Liên Xô. Các tướng Pháp không sao giải quyết được mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực để vừa đạt mục đích quân sự (tiến công tiêu diệt chủ lực của đối phương) và mục đích của chiến tranh thuộc địa (cướp đất, giữ dân để khai thác về kinh tế). Càng kéo dài chiến tranh, thực dân Pháp càng bị tổn thất nặng nề. Nó trở thành một gánh nặng về tâm lý và kinh tế cho người Pháp; buộc Pháp phải nhận viện trợ của Mỹ và lệ thuộc vào Mỹ; bị dư luận nước Pháp và quốc tế lên án mạnh mẽ. Phong trào phản đối cuộc chiến tranh bẩn thỉu (La sale guerre) ở Pháp dâng cao. Nội bộ giới cầm quyền chia rẽ thành hai phái: chủ chiến và chủ hoà, đấu tranh gay gắt với nhau trong chính phủ và quốc hội, làm cho nội tình nước Pháp không ổn định. Sau tám năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, nước Pháp phải thay đổi chính phủ tới 18 lần. Trước khi thua trên chiến trường, bọn thực dân phản động Pháp đã thua ngay tại nước Pháp. Chính phủ Lanien (Laniel) lên cầm quyền (28-6-1953) bắt đầu nghĩ đến một giải pháp chính trị thông qua thương lượng. Trong khi đó, chính sách kiên định của Mỹ là lái cho Pháp tránh xa khỏi bàn hội nghị trong khi chưa giành được những thắng lợi quan trọng trên chiến trường. Đalét (Dulles) nhiều lần nói với Biđôn (Bidault) rằng Mỹ thấy kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương trong điều kiện thuận lợi cho cộng sản là một điều không nên. Ông ta muốn người Pháp tiếp tục cuộc chiến vì Đông Dương là một mắt xích chủ yếu trong phòng tuyến ngăn chặn cộng sản trong khu vực. Pháp và Mỹ muốn thương lương trên thế mạnh đã dẫn tới việc Đại tướng H. Navarre được cử sang làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch quân sự Nava (H. Navarre) ra đời và được thông qua. Trong Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, kế hoạch đó không thể thực hiện được theo dự kiến, mà bị đảo lộn hoàn toàn do những cuộc tiến công chủ động và kiên quyết của chủ lực Việt Minh trên những hướng chiến lược quan trọng mà quân Pháp không thể bỏ. Navarre muốn tập trung nhưng lại phải phân tán binh lực; muốn giành quyền chủ động nhưng lại càng bị động đối phó lúng túng; muốn tiến công nhưng phải kéo quân đỡ đòn xuôi ngược khắp nơi. Theo đánh giá của tướng Êly (élly), bản đồ chiến tranh của Pháp ở Đông Dương tồi tệ hơn nhiều so với dự kiến trước đó. Quân Pháp đã mất ở Điện Biên Phủ "quả đấm tấn công". Trong biển lửa của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam, khắp nơi quân đội Pháp ở vào tình trạng phân tán chiếm đóng "bất động" (immobilisation), tinh thần sa sút, phải thực hiện một sự bố trí hoàn toàn phòng ngự và cần phải tăng viện ngay. Nhưng khả năng tăng viện của Pháp lúc đó rất hạn chế vì phải gọi quân dự bị. Cơ quan tình báo Mỹ (CIA) cho rằng tình hình quân sự và chính trị của Pháp ở Đông Dương tồi tệ. Nếu đà đó không được ngăn chặn thì nó sẽ đưa đến sự sụp đổ của Pháp vào nửa sau của năm 1954[7]. Thất bại ở Điện Biên Phủ làm tan tành cố gắng lớn nhất và cũng là cố gắng cuối cùng của thực dân Pháp với sự giúp sức của đế quốc Mỹ, làm cho thực dân Pháp không thể hy vọng giành thắng lợi bằng quân sự, phong trào phản chiến ở Pháp phát triển mạnh. Nhiều tướng Pháp cho rằng Pháp không thể thắng, Việt Minh không thể thua. Laniel và Bildault phải từ bỏ chủ trương thương lượng trên thế mạnh. Nội bộ giới cầm quyền Pháp càng thêm chia rẽ, lục đục, đấu tranh gay gắt với nhau. Sau khi Chính phủ Lanien sụp đổ, Chính phủ Măngđét Phơrăngxơ (Mendès France) lên thay (6-1954), chủ trương giải quyết cuộc chiến tranh bằng thương lượng. Măngđét Phơrăngxơ hứa với Quốc hội và nhân dân Pháp là sẽ lập lại hòa bình ở Đông Dương trong vòng một tháng. Thế là so với những năm đầu chiến tranh, ý chí xâm lược của thực dân Pháp đã bị đánh bại, thái độ của giới cầm quyền Pháp buộc phải thay đổi. Họ cần tới bàn đàm phán để kết thúc chiến tranh, tránh để cho Hà Nội có thể trở thành "một Điện Biên Phủ thứ hai", nơi mồ chôn quân viễn chinh Pháp. 3. Tác động của nguyện vọng hoà bình và xu thế hoà hoãn trên thế giới. Hoà bình không chỉ là nguyện vọng của dân tộc Việt Nam mà còn là nguyện vọng chung của nhân loại. Đại hội hoà bình thế giới lần thứ hai họp tại Vacsava ra nghị quyết đòi chấm dứt chiến tranh Triều Tiên và Đông Dương. Từ năm 1950 đến 1953 có chín hội nghị quốc tế bảo vệ hoà bình đều có nghị quyết về Việt Nam. Tháng 10-1953, Đại hội công đoàn thế giới lần thứ ba với sự tham dự của đại biểu 79 nước quyết định lấy ngày 19-12-1953 làm "Ngày đoàn kết với nhân dân Việt Nam anh dũng và đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam". Đảng Lao động Việt Nam ý thức rằng "Hoà bình là nguyện vọng tha thiết của hàng trăm triệu nhân dân thế giới. Hoà bình có thể giữ gìn và củng cố được vì nhân dân thế giới đang đoàn kết, thống nhất, tích cực bảo vệ nó, chống lại bọn đế quốc gây chiến"[8]. Trật tự thế giới hai cực Yanta chi phối quan hệ quốc tế và có ảnh hưởng lớn đến tình hình Việt Nam. Biểu hiện rõ nhất là từ năm 1950, trong khi Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, thì Mỹ, Anh và một số nước khác (Thái Lan và Philippin) công nhận chính quyền Bảo Đại do Pháp dựng lên. Sự can thiệp của Mỹ làm cho chiến tranh ở Đông Dương đạt tới một quy mô mới, được "quốc tế hoá" và trở thành một bộ phận trong cuộc thập tự chinh chống cộng của Mỹ. Vấn đề chiến tranh ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng trở thành một vấn đề quốc tế giữa hai phe, mà theo cách diễn đạt của tướng Pháp Ivơ Gơra (Yves Gras) thì nó "lồng vào cuộc xung đột toàn cầu giữa phương Đông và phương Tây". Và theo Cựu sĩ quan tình báo Mỹ Patti thì "Nó đã được quốc tế hoá và trở thành một bộ phận của cuộc thập tự chinh chống cộng của Mỹ"[9]. Quan hệ quốc tế trên đây có ảnh hưởng đến việc kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương. Khi chiến tranh lạnh lên đến đỉnh cao và có hai cuộc chiến tranh nóng ở châu Á (Đông Dương và Triều Tiên), cũng là lúc xu thế hoà hoãn xuất hiện. Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) chấm dứt bằng một thoả hiệp quân sự (27-7-1953) được ký kết giữa Trung Quốc và Bắc Triều Tiên với Mỹ và Nam Triều Tiên, tiếp tục chia cắt Triều Tiên ở vĩ tuyến 38, giữ nguyên trạng như sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Thực chất đây là một cuộc đọ sức giữa hai phe mà không phân thắng bại, phản ánh so sánh lực lượng đang ở thế cân bằng. Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên có tác động đến hai phái chủ hoà và chủ chiến trong chính quyền Pháp. Những người trong phái chủ hoà tuyên bố cuộc đình chiến ở Triều Tiên phải dẫn đến đàm phán về Đông Dương. Ngày 22-11-1953, đại diện các tổ chức và lực lượng phản đối chiến tranh của Pháp mở hội nghị toàn quốc đòi lập lại hoà bình ở Đông Dương. Liên Xô mong muốn đi đến giải pháp hoà bình cho cuộc chiến tranh ở Đông Dương nhằm ngăn chặn việc Mỹ có thể mở rộng chiến tranh ở đây và thúc đẩy xu thế làm dịu tình hình thế giới. Liên Xô chủ trương triệu tập một hội nghị năm nước lớn (Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp và Trung Quốc) để tìm biện pháp giảm bớt tình hình căng thẳng ở Viễn Đông. Trung Quốc, một trong những nước viện trợ lớn nhất cho cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam, cũng chủ trương sớm giải quyết hoà bình cuộc xung đột ở Đông Dương nhằm ngăn chặn Mỹ mở rộng chiến tranh, bảo đảm hoà bình và an ninh cho Trung Quốc và khu vực Viễn Đông. Xã luận Nhân dân nhật báo ngày 3-9-1953 khẳng định: dư luận châu Á và phần còn lại của thế giới đòi hỏi rằng cuộc đình chiến ở Triều Tiên phải đưa đến hoà bình ở toàn châu Á. Đây là lúc Trung Quốc vừa mới ra khỏi cuộc chiến tranh Triều Tiên và đang thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, cần những điều kiện ổn định để xây dựng kinh tế. Trung Quốc triển khai chính sách cùng tồn tại hoà bình, trước mắt là với các nước châu Á. Tháng 4-1954, Hiệp định giữa Ấn Độ và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về buôn bán và quan hệ của Tây Tạng với Ấn Độ nêu lên lần đầu tiên năm nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Vấn đề cùng tồn tại hoà bình đang trở thành một xu thế lớn và chi phối quan hệ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, "mục đích chính của phe ta hiện nay là: làm cho tình hình thế giới bớt căng thẳng; chủ trương giải quyết các cuộc tranh chấp trên thế giới bằng cách thương lượng"[10]. Nước Anh còn nhiều quyền lợi ở Đông Nam Á, không muốn chiến tranh ở khu vực này mở rộng và bị quốc tế hoá, cũng cho rằng đình chiến ở Triều Tiên sẽ dẫn tới việc đàm phán về những vấn đề rộng lớn hơn, trong đó có Đông Dương. Mỹ là nước không muốn dùng giải pháp đàm phán hoà bình với Việt Minh để giải quyết cuộc chiến tranh ở Đông Dương, mà muốn Pháp trao trả "độc lập hoàn toàn" cho Bảo Đại. Sau khi đình chiến ở Triều Tiên, Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương, tăng cường viện trợ cho Pháp nhằm kéo dài và mở rộng chiến tranh, phản đối việc thương lượng. Mỹ sợ "để mất Đông Dương vào tay cộng sản" và làm "nguy kịch cho nền an ninh của Mỹ". Đông Dương được Mỹ đặt trong phòng tuyến chống cộng ở châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 13-1-1954, Ngoại trưởng Dulles tuyên bố: "Đứng về chiến lược, quyền lợi của Mỹ ở vùng Viễn Đông gắn chặt với các đảo ở bờ biển vùng đó. Các đảo đó có hai cứ điểm ở trên lục địa: phía bắc là Triều Tiên và phía nam là Đông Dương. Giữa hai cứ điểm đó là các đảo Nhật Bản, Lưu Cầu, Ôkinaoa, Đài Loan, Phi Luật Tân, Úc, Tân Tây Lan…"[11]. Trong hoàn cảnh quốc tế lúc đó, Mỹ chưa có điều kiện đưa quân đến tham chiến trực tiếp ở Đông Dương, mà chủ trương tăng cường viện trợ quân sự cho Pháp nhằm giúp Pháp giành thắng lợi trên chiến trường, buộc đối phương phải chấp nhận một giải pháp có lợi cho Mỹ. Tháng 11-1953, cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của quân đội và nhân dân Việt Nam bắt đầu bằng cuộc hành quân lên hướng Tây Bắc (11-1953) Ngày 19-11-1953, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam triệu tập Hội nghị cán bộ phổ biến nhiệm vụ quân sự và kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Ngày 20-11-1953, Nava phải mở cuộc hành binh Catxtô (Casto), cho quân nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Đầu tháng 12-1953, Nava quyết định tiếp nhận chiến đấu ở Tây Bắc xoay quanh căn cứ lục - không quân Điện Biên Phủ mà phải được bảo vệ bằng bất cứ giá nào. Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam nghe Tổng Quân uỷ báo cáo quyết tâm tiến công Điện Biên Phủ và thông qua kế hoạch tác chiến. Tháng 1-1954, Hội nghị ngoại trưởng bốn nước (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp) họp ở Berlin bàn về biện pháp làm dịu tình hình căng thẳng trong quan hệ quốc tế, vấn đề nước Đức và nhiệm vụ bảo đảm an ninh của châu Âu và vấn đề thống nhất nước áo. Liên Xô có nhượng bộ: tạm gác các vấn đề Đức, an ninh châu Âu, giải trừ quân bị để tập trung giải quyết cuộc chiến tranh nóng ở châu á. Ngày 18-1-1954, bốn nước này quyết định triệu tập Hội nghị Giơnevơ để giải quyết hoà bình, vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương. Giải quyết hoà bình cuộc chiến tranh Đông Dương trở thành một xu thế không thể đảo ngược. Mục đích của các chính phủ Việt Nam, Pháp và các nước khác có điều dị biệt nhưng có một điểm tương đồng là đến bàn đàm phán hoà bình. 4. Hội nghị Quốc tế Giơnevơ 1954 về Đông Dương và sự kết thúc chiến tranh. Ngày 26-4-1954, Hội nghị Giơnevơ bắt đầu họp về vấn đề Triều Tiên, nhưng không đi đến một giải pháp nào. Thời gian Hội nghị bàn về Triều Tiên là lúc quân đội viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ đang nguy kịch. Sau khi các cứ điểm Him Lam, Độc Lập bị tiêu diệt, quân Pháp ở Bản Kéo buộc phải ra hàng. Hàng loạt cứ điểm ở khu Đông Mường thanh bị tiêu diệt từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 4-1954. Từ ngày 1 tháng 5 khu trung tâm bắt đầu bị tiến công dồn dập, chiều ngày 7 tháng 5 Bộ chỉ huy quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ra hàng. Điều đó càng thu hút sự quan tâm của các nước lớn đến vấn đề đàm phán hoà bình để giải quyết cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Thất trận ở Điện Biên Phủ làm cho hy vọng thương lượng trên thế mạnh của các thế lực đế quốc hiếu chiến tan vỡ. Buổi sáng ngày 8-5-1954, Quốc hội Pháp nghe Thủ tướng Pháp Lanien công bố sự thất thủ của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ. Buổi chiều cùng ngày, Tổng thống Mỹ Aixenhao (Eisenhower) họp Hội đồng an ninh quốc gia để thông báo về kết cục bi thảm này. Tại Hội nghị Giơnevơ, đoàn đại biểu Pháp mặc trang phục màu đen, Ngoại trưởng Bidault thông báo tin quân Pháp thất trận và đề nghị chấp thuận nguyên tắc của một cuộc tổng ngưng chiến tại Đông Dương nhằm bảo đảm an ninh cần thiết. A. Patti mô tả: "Cuộc hội nghị mở đầu một cách gay cấn trong một bầu không khí ảm đạm, không chắc chắn và đầy nghi ngờ. Khối cộng sản nắm toàn bộ các chủ bài. Tất cả những người tham dự hội nghị đều mang theo những động cơ riêng của mình: Pháp đã mất hết ý chí chiến đấu và mong muốn có một cuộc hoà giải nhanh chóng; Mỹ đã thất bại trong việc cố buộc Pháp vào hoạt động quân sự thống nhất nhằm đấu tranh chống lại sự bành trướng của cộng sản ở Đông Nam Á; Anh mong thiết lập lại hòa bình và làm giảm căng thẳng quốc tế đang tác động tai hại đến quyền lợi Anh trong vùng; Trung Cộng lại muốn nắm lấy thời cơ để đối phó với Mỹ trên một thế bình đẳng trong các vấn đề quốc tế, còn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì mong muốn và hy vọng được công nhận như một thực thể có chủ quyền để được đối xử một cách tương xứng với cái giá họ đáng phải được"[12]. Ngày 8-5-1954, vấn đề chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương được đưa ra thảo luận. Với sự tham gia của chín bên (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, quốc gia Việt Nam, Lào và Campuchia). Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn bước vào Hôị nghị với tư thế người chiến thắng. Từ ngày 4 đến ngày 27-7-1954 còn có Hội nghị quân sự Việt - Pháp họp ở Trung Giã (Thái Nguyên). Diễn biến của Hội nghị Giơnevơ rất phức tạp với sự đấu tranh quyết liệt của đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và dự dàn xếp của các nước lớn, nhất là xung quanh vấn đề phân vùng đóng quân, vấn đề tổng tuyển cử và thống nhất nước Việt Nam, vấn đề các lực lượng kháng chiến ở Lào và Campuchia... Trong điều kiện lịch sử cụ thể lúc đó, theo xu thế chung giải quyết các cuộc xung đột trên thế giới bằng thương lượng, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà chấp nhận ký Hiệp định Giơnevơ. Ngày 21-7-1954, các nước tham dự Hội nghị ra một bản tuyên bố cuối cùng và ký các văn bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia, tạo nên khung pháp lý của Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương. Theo Phạm Văn Đồng, "Hiệp định Giơnevơ tóm lại gồm hai điểm quan trọng: một là, quy định giới tuyến quân sự tạm thời; hai là, tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam, hai năm sau ký Hiệp định Giơnevơ, nghĩa là tháng 7-1956. Hai điểm này quan hệ mật thiết với nhau, giới tuyến quân sự chỉ là tạm thời bởi lẽ khi có tổ chức tổng tuyển cử nhằm thống nhất nước Việt Nam thì tất nhiên không còn có giới tuyến này nữa"[13]. Cho đến nay còn có những đánh giá khác nhau về nội dung Hiệp định và thái độ của các nước lớn tham gia Hội nghị Giơnevơ. Tổng thống Aixenhao tuyên bố: "Tôi không có gì phê phán cái đã làm được ở Giơnevơ bởi vì tôi không có một giải pháp thay thế đề nghị", song ông cũng nói: "Hoa Kỳ không bị các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ ràng buộc". Ngoại trưởng Anh Eden cho rằng: "Đó là thoả thuận tốt nhất mà chúng ta đã tự tay làm ra"[14]. Nhưng đối với dân tộc Việt Nam, thì đây chỉ là kết thúc một chặng trên con đường đấu tranh lâu dài và gian khổ để đi tới độc lập tự do. Tại phiên họp cuối cùng của Hội nghị, trong một tuyên bố riêng, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kêu gọi đồng bào của mình: "Nhân dân Việt Nam! Đồng bào miền Nam! Thắng lợi thuộc về chúng ta! Độc lập và thống nhất Tổ quốc chúng ta là ở trong tay chúng ta. Những người yêu chuộng hoà bình và công lý trên toàn thế giới đều đồng tình với chúng ta. Đồng bào hãy nhớ lấy lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Cuộc đấu tranh phải gian khổ, nhưng cuối cùng chúng ta nhất định thắng"[15]. Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Đó là thắng lợi của chiến tranh nhân dân ở một đất nước đất không rộng, người không đông, kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, trình độ khoa học chưa phát triển, chống chiến tranh xâm lược của một đế quốc to, có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn mạnh, trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến, có quân đội nhà nghề thiện chiến và phương tiện chiến tranh hiện đại. Cơ đồ thực dân cũ của Pháp ở Đông Dương bị xoá bỏ hoàn toàn, thúc đẩy sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới; cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu á, châu Phi, Mỹ Latinh. Việt Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng và niềm tin thắng lợi của các dân tộc nhược tiểu đang vùng dậy đấu tranh cho độc lập tự do. Hoà bình được lập lại ở Việt Nam và trên toàn bán đảo Đông Dương, đáp ứng nguyện vọng hoà bình của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Khi ký bản Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, Pháp mới chỉ công nhận tính thống nhất của nước Việt Nam (Việt Nam là "một quốc gia"), nhưng không công nhận nền độc lập. Hội nghị Giơnevơ, một hội nghị quốc tế với sự tham gia của các nước lớn đã thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào và Campuchia là: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; tạo cơ sở pháp lý để nhân dân Việt Nam tiếp tục đấu tranh trong 21 năm tiếp theo để giành độc lập và thống nhất hoàn toàn. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng, và tiếp tục được xây dựng vững mạnh, thành căn cứ địa chung của cách mạng cả nước, thành hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược sau này. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9-1960) nhận định: "Việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc Việt Nam, và đặt cơ sở pháp lý cho việc thống nhất nước Việt Nam là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, hòa bình và dân chủ trên thế giới. Nó phản ánh tình hình lực lượng so sánh ở Đông Dương và trên thế giới lúc bấy giờ. Thắng lợi to lớn đó không những tạo ra khả năng để thực hiện hòa bình thống nhất nước ta trên cơ sở độc lập và dân chủ, mà còn tạo những điều kiện thuận lợi cho cách mạng ở miền Bắc tiến lên một giai đoạn mới"[16].

[1]. Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, t.1, tr. 230. [2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 480. [3]. Hồ Chí Minh, biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 160. [4]. Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng, 2001, tr.826. [5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 168. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 555-556; t.15, tr.181, 185-186. [7]. US. Vietnam relation, Book 9. [8]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 555. [9]. Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Sđd, tr. 770. [10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 175. [11]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 404. [12]. Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Sđd, tr. 838. [13]. Phạm Văn Đồng: Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 76. [14]. Philippe Devillers - Jean Lacouture : La fin d' une guerre, Seul, Paris, 1960, tr. 228. [15]. Bộ Ngoại giao: Những văn bản chính của Hội nghị Giơnevơ, Hà Nội, 1955, tr. 239. [16]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.21, tr. 502-503.

Vũ Quang Hiển Nguồn: Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2001-2006), Nxb Chính trị quốc gia, H., 2006, Tr. 658-672. Theo Website Khoa Lịch sử, khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn, 13-09-2012.

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước 1945, Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thành lập ngày 19-5-1941 là một sáng tạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Việt Minh là một tổ chức liên minh chính trị (trong đó, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng là một bộ phận trong Việt Minh - bộ phận nòng cốt và lãnh đạo) nhằm đoàn kết liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái chính trị, các đoàn thể dân chúng yêu nước, cùng đánh đuổi Nhật - Pháp, giành quyền độc lập cho dân tộc Việt Nam, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tháng 3-1951, Việt Minh hợp nhất với Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, lấy tên là Mặt trận Liên Việt nhưng vẫn được mọi người quen gọi là Việt Minh.

Qua các hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, của các nhà lãnh đạo Việt Minh, của một số nhân chứng, các tư liệu lịch sử, ảnh, báo chí xuất bản trong thời kỳ này, tác giả bài viết mong muốn phác họa đôi nét về hình ảnh, cuộc sống của người chiến sĩ Việt Minh đã tham gia chiến đấu trong những năm 1945-1954 tại chiến khu Việt Bắc, các vùng kháng chiến ở miền Trung và Nam bộ, tại các chiến trường quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Vậy người lính Việt Minh là ai? Họ từ những nông dân, thợ thuyền, trí thức tự nguyện gia nhập các đội tự vệ, dân quân, du kích và các lực lượng vũ trang quân đội nhân dân Việt Nam trong Mặt trận Việt Minh để chiến đấu bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Họ là những người chiến đấu vô cùng dũng cảm, sẵn sàng hy sinh, sống có lý tưởng, mục đích, chịu đựng, vượt qua mọi gian khổ, khó khăn để chiến thắng kẻ thù.

Những năm cuối thập kỷ 40 của thế kỷ trước, nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp trong đơn độc, trong vòng vây của chủ nghĩa thực dân, không có sự hỗ trợ của quốc tế về vật chất. Trong điều kiện sống và chiến đấu trường kỳ, tự lực cánh sinh, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, các nhu cầu về ăn, mặc, ở, vũ khí súng đạn của bộ đội vô cùng khó khăn, thiếu thốn.

Thiếu vũ khí trong chiến đấu, với tinh thần sáng tạo, người lính Việt Minh tự sản xuất, chế tạo nhiều loại vũ khí còn thô sơ nhưng có công hiệu không nhỏ. Trong 60 ngày đêm chiến đấu ác liệt bảo vệ Hà Nội cuối năm 1946, các quyết tử quân đã ôm bom ba càng lao vào tiêu diệt xe tăng Pháp. Đây là một loại bom hình chóp nón, đáy lõm, có ba càng, được làm bằng gang hàn kín, bên trong chứa thuốc nổ, bên ngoài có kíp nổ. Đến đầu 1947, súng bazôka được nghiên cứu, chế tạo thành công ở chiến khu Việt Bắc và trong khu rừng Sác thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu. Súng bắn đạn lõm, có độ nóng lên tới 3.000oC, dễ dàng xuyên thủng vỏ xe tăng, xe bọc thép, tàu thủy của đối phương.

Bom ba càng, do người lính Việt Minh tự chế tạo, sản xuất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Súng Bazôka, do quân giới ta sản xuất-nỗi kinh hoàng của quân đội Pháp trong chiến dịch Thu- Đông 1947.

Những người lính làm công tác địch vận trong kháng chiến cũng có nhiều sáng kiến: xuất bản báo Tia Sáng (1946-1950) - tờ báo địch vận đầu tiên của Việt Minh bằng tiếng Pháp, làm các chương trình phát thanh, đến nói chuyện tại các trại giam tù binh Pháp, kể các câu chuyện về văn hóa Việt Nam, về nỗi niềm của người lính xa nhà, về những giấc mơ hòa bình của người lính Lê dương trong đội quân Viễn chinh. Trong chiến dịch Biên Giới thu đông 1950, anh nuôi, bộ đội tìm tàn binh Pháp lẩn trốn trong rừng bằng cách cắm nắm cơm lên đầu một cây gậy tre giơ cao thay lời kêu gọi bằng tiếng Pháp mà họ không biết nói. Thương binh, tù binh Pháp càng thấm thía hơn khi được người chiến sĩ không cùng chiến tuyến cho uống từng ngụm nước, nhường cả khẩu phần ăn ít ỏi của mình cho những người mà chỉ ít gi trước đó, hai bên cùng sẵn sàng sinh tử.

Sau trận chiến, để đảm bảo lương thực, bộ đội tự tăng gia sản xuất, trồng sắn, ngô, tự cấp tự túc. Bữa ăn chỉ có khoai, sắn, ngô, măng rừng chấm muối, cơm vắt, muối vừng hoặc mấy bánh lương khô được Trung Quốc viện trợ sau năm 1950. “Nửa đêm, dọc đường hành quân, vừa ngồi nghỉ vừa nhai mấy nhúm gạo rang lót dạ”, uống nước cơm cháy đựng trong ống bương.

Bếp Hoàng Cầm- đến ngày nay vẫn được đưa vào chương trình đào tạo trong các trường quân sự của quân đội nhân dân Việt Nam.

Năm 1949, tiền sinh hoạt phí của bộ đội chỉ đủ mua 7-8kg gạo (4-620). Cuối 1952, do bị bão lớn, ở vùng căn cứ Dương Minh Châu (Nam bộ), tiêu chuẩn gạo của bộ đội có lúc chỉ còn 2,5kg gạo/tháng, phải ăn cháo, thậm chí không đủ gạo nấu cháo cho thương binh (3 -185). Trong chiến dịch Tây Bắc, đời sống của bộ đội càng khó khăn hơn khi dân công, mặc dù với khẩu phần ăn hàng ngày đã rất hạn chế, đã ăn hết 92% số gạo vận chuyển ra mặt trận. Việc nấu cơm phục vụ bộ đội ở chiến trường thường phải làm ban đêm và nhiều lần bị địch phát hiện dẫn đến nhiều tổn thất xương máu. Chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm (thuộc đại đoàn 308) đã có sáng kiến đào những đường rãnh thoát bên sườn núi nối liền với bếp nấu, bên trên rãnh đặt cành cây và phủ một lớp đất mỏng được tưới nước để giữ độ ẩm. Khói từ các bếp nấu bốc lên qua các đường rãnh, chỉ còn là một dải hơi nước tan nhanh khi rời khỏi mặt đất. Từ đó anh nuôi có thể thổi nấu ban ngày, bộ đội được ăn uống nóng trong mùa đông giá lạnh. (4 – 799). Chiến dịch Điện Biên Phủ đầu 1954, bộ đội mang theo đỗ làm giá thay rau tươi ngay trên dọc đường hành quân.

Một cảnh sinh hoạt của bộ đội Thừa Thiên - Chiến khu 2 năm 1948.

Bộ đội Quảng Ngãi luyện tập trong kháng chiến chống Pháp.

Những ngày đầu kháng chiến, “quần áo bộ đội phần lớn do anh em mang từ gia đình đi. Nhiều đơn vị thành lập một thời gian dài vẫn không đủ quần áo cấp cho bộ đội” (4 - 444). Năm 1946 -1947, tự vệ đội mũ calo gắn phù hiệu vuông nền đỏ sao vàng “chiếc mũ calo có đính ngôi sao vàng Vệ quốc quân” (5 – 76). Hành trang của người chiến sĩ chỉ có “một đôi dép lốp, thuốc ký ninh và thuốc Stovarsol, dạng ống chữa đi lỵ, đi kiết” (5 – 90). “Các chiến sĩ tự sắm dép cao su, làm lấy mũ nan, bi đông bằng ống tre, bát bằng ống bương, balo, giỏ lựu đạn bằng tre mây.” (4- 444). Cuối năm 1947, vào mùa đông, bộ đội có thêm áo trấn thủ. Áo trấn thủ rất đơn giản, ngắn đến thắt lưng, cổ tròn, không có tay áo. Gồm có hai mảnh: mảnh trước và mảnh sau, nối liền nhau ở cạnh sườn và một bên vai. Cạnh sườn và trên vai bên kia thì cài cúc. Mỗi mảnh áo may hai lần vải, ở giữa nhồi bông, chần hình quả trám. Áo gọn gàng, giữ nhiệt tốt.

Áo trấn thủ- Anh hùng Cù Chính Lan mặc khi tham gia chiến dịch Hòa Bình, năm 1951.

Dép cao su, một sáng kiến của bộ ta trong kháng chiến chống Pháp.

Những năm kháng chiến gian khổ hiếm bông, có thời kỳ phải dùng lông vịt hay vỏ cây sui đập rập, phơi khô thay bông. Cúc, khuy cũng thiếu, phải dùng dây vải buộc hoặc làm cúc bằng giấy ép tẩm sơn thay thế. Chiếc mũ bộ đội thường dùng được đan bằng tre, hoặc làm bằng lá cọ nhưng có đặc điểm là bọc vải chùm cả vành mũ, bên ngoài phủ một tấm lưới có đính rải rác những miếng vải dù hoa xé nhỏ để ngụy trang. Có trường hợp mũ chỉ bọc vải dù hoa. Chân đi đôi dép lốp cao su đen (từ khu Bốn trở ra được gọi là dép Bình Trị Thiên). Xuất hiện đầu năm 1947, dép cao su là một sáng tạo có giá trị lịch sử, giải quyết được đồ đi cho bộ đội, người dân suốt thời gian kháng chiến chống Pháp và mãi về sau này. Chiến sĩ lấy lốp xe ôtô, đo chân cắt thành đế dép, dùi tám lỗ để xỏ quai bằng cao su đen lấy từ xăm ô tô: hai quai chéo phía trên, hai quai ngang phía dưới làm quai hậu và quai vòng. Bề ngang các quai khoảng 1 cm. Điều kì lạ là giữa quai và đế được cố định chắc chắn vào nhau không bằng bất cứ một thứ keo kết dính nào mà nhờ vào sự giãn nở của cao su. Đó là những đôi dép rất đơn giản, bền, tiện sử dụng, dễ làm, dễ bảo quản, vệ sinh, thích ứng trong mọi điều kiện địa hình, khí hậu, thời tiết ở vùng rừng núi trong kháng chiến. Chiếc mũ nan lớp vải, áo trấn thủ và đặc biệt là đôi dép được cắt từ lốp và ruột xe ôtô cũ đã qua sử dụng làm hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ thời kỳ chống Pháp thật giản dị, gần gũi và thân thương. Đến chiến dịch Tây Bắc năm 1952, để chống cái rét của vùng rừng núi, bộ đội được phát áo chấn thủ dài tay (như một thứ blu-dông bông). Ngoài ra, do thu được nhiều dù chiến lợi phẩm, mỗi người thường dùng một miếng dù to, khi hành quân thì ngụy trang, trời rét thì quàng cổ, đêm ngủ thì làm chăn đắp. Năm 1953, bộ đội bắt đầu được trang bị quân phục thống nhất.

Chiến dịch Điện Biên Phủ đầu 1954, “các chiến sĩ mặc áo bông mới dài tay, súng đạn, balô, bao gạo đầy ắp trên người, đi hàng một nuối đuôi nhau bước gấp ra trận địa. Chiếc cọc màn, dây phơi quần áo được chuẩn bị sẵn để có chỗ ngủ tươm tất. Trước khi đi ngủ, từng tổ ba người khoét một hố nhỏ, lót nilông bên dưới rồi đổ nước ấm pha muối để cùng ngâm chân”.

Phát huy sở trường đánh địch trên chiến trường rừng núi, đánh đêm, đánh gần, trong những lần hành quân trong đêm tối, bộ đội thường lấy lá mục hoặc mảnh tre mục cài lên mũ hoặc sau lưng để người sau nhận ra người đi trước qua những đốm sáng lân tinh. Thời gian hành quân được bộ đội biến thành những giờ học văn hóa, vừa hành quân người đi sau vừa học chữ trên những tấm bảng nhỏ treo trên lưng người đi trước. Mỗi chiến sĩ mang 30kg gạo, súng, đạn, thuốc nổ trên vai. Gặp trời mưa giữa đèo cao, dốc đứng, bộ đội đứng hàng giờ giữa suối, giữa đèo, mưa rát mặt mà không thể tìm ra chỗ ngồi nghỉ hoặc đặt tạm balô. Quần áo mặc trên người ướt lại khô, khô rồi lại ướt.

Sau chiến dịch Biên Giới, chiếc xẻng là một trong những thứ trang bị của người lính xung kích. Xẻng dùng để đào hố tránh đại bác, đào hệ thống hầm (pháo, giấu xe, sinh hoạt, thương binh...). Mỗi hầm sinh hoạt có 3 người, có 2 giường bằng đất, căng vải dù. Nấu ăn dưới hầm, có kho dự trữ thực phẩm, có giếng nước trong vắt, bộ đội dùng gỗ hòm đạn lát trần, vách, ghép giường, bàn ghế. Những lúc nghỉ trong hầm, bộ đội đọc truyện, chơi tú lơ khơ, dùng vỏ đạn chế đèn dầu phục vụ sinh hoạt. Trong thời gian diễn ra chiến dịch Điện Biên, bằng những chiếc xẻng nhỏ bé, hệ thống hào trục (sâu 1,7m, đáy 1,2m), hào bộ binh (đáy 0,5m) mỗi ngày lại dài hơn, vây chặt kẻ thù. Mỗi chiến sĩ sau giờ ngủ buổi sáng, buổi chiều chuẩn bị gỗ, lá ngụy trang xây dựng trận địa, đến tối, từ nơi trú quân tiến ra cánh đồng đào trận địa. Gần cứ điểm, bộ đội chuyển sang đào dũi, không lộ thiên, đào cả ngày lẫn đêm.

Xẻng của bộ đội công binh sử dụng trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Bộ đội ta được trang bị chính qui trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Vượt lên gian khó, tại núi rừng Việt Bắc, những chiến sĩ làm công tác văn hóa không ngừng nghỉ làm báo, in, xuất bản nhiều loại báo chí đều đặn hàng ngày. Đặc biệt có báo được in và phát hành, chuyển đến tay bộ đội ngay tại mặt trận Điện Biên Phủ (báo Quân đội nhân dân). Bộ đội được xem triển lãm trong rừng, thưởng thức các chương trình giao lưu, văn nghệ, thấm đẫm tinh thần lạc quan yêu đời, vững tin vào cuộc kháng chiến nhất định thắng lợi, đất nước độc lập.

Bộ đội ta đọc báo trong những phút bình yên hiếm hoi tại mặt trận Điện Biên Phủ.

Trong những năm tháng ấy, nhiều chiến sĩ đã trở thành thi sĩ. Nhiều bài thơ mà tác giả chính là người chiến sĩ như: Tây Tiến của Quang Dũng phác hoạ vẻ đẹp hào hùng và bi tráng, niềm vui và nỗi buồn của người chiến sĩ trong “đoàn quân không mọc tóc” thường bị sốt rét hoành hành, với màu da tái xanh và bị rụng tóc tiến lên vùng rừng núi Tây bắc, giáp Lào năm 1948. Bài Đồng chí của Chính Hữu, ca ngợi tình đồng chí, đồng đội trong chiến đấu giữa những người cùng chịu những cơn “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, cùng cảnh “áo rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giầy”… Không chỉ những nhà thơ - chiến sĩ được lưu danh, còn có vô kể những lời ca, điệu hò vô danh được sinh ra qua mỗi chiến dịch từ Tây Bắc đến Điện Biên.

Trong mỗi người lính Việt Minh luôn chứa đựng một bản lĩnh, phẩm chất, một sức mạnh kỳ diệu được xây đắp lên từ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chính xác hơn đó là bản sắc dân tộc, đó là tiếng gọi từ con tim, từ dòng máu Việt. Người chiến sĩ Vệ quốc quân – Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp - những con người bình dị mà cũng thật anh dũng, hiên ngang là biểu tượng cao đẹp sẽ sống mãi với thời gian, với non sông đất nước.

Ths. Nguyễn Thị Tường Khanh (Ban XDND&HTTB)

1. Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 thắng lợi và bài học. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2000.

2. Võ Nguyên Giáp trong cuộc trường chinh thế kỷ. Trần Thái Bình. NXB Văn hóa Sài Gòn, 2007.

3. Lê Duẩn tiểu sử. Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2007.

4. Tổng tập hồi ký Đại tướng Võ Nguyên Giáp. NXB Quân đội Nhân dân. Hà Nội, 2006.

5. Những nẻo đường chinh chiến. Hồi ức của Đào Văn Xuân. NXB Hội Nhà văn Việt Nam. Hà Nội, 2004.

Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ (1954-1975), chiến thắng nào dưới đây của quân dân miền Nam đã buộc Mĩ phải chấp nhận đến bàn đàm phán với Việt Nam tại Hội nghị Pa-ri?

Xem lại nội dung chiến lược “Chiến tranh cục bộ”

Chiến thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 đã buộc Mỹ chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán Pa-ri.

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch sử lớp 9 - Xem ngay

Sau Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh (2/9/1945) không lâu, Nhân dân ta lại phải bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trong điều kiện bị bao vây tứ phía, vô cùng khó khăn. Vì vậy, cùng với phát huy tinh thần và truyền thống tự lực cánh sinh, tự lực tự cường, Đảng, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chủ trương đối ngoại sáng tạo "làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không thù oán với một ai" nhằm phá vây, kết nối Việt Nam với thế giới, tranh thủ thủ sự ủng hộ quốc tế tạo sức mạnh đưa "kháng chiến, kiến quốc" đến thắng lợi. Trong khi đặt trọng tâm tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của Trung Quốc - nước láng giềng vốn có mối quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa gần gũi, lâu đời, Việt Nam đã nỗ lực hướng đến thiết lập quan hệ với Liên Xô.

Việt Nam và Liên Xô cách nhau hàng vạn dặm, nhưng hai dân tộc đã có sự tiếp xúc từ rất sớm. Và từ sau Cách mạng tháng Mười (1917) hai dân tộc Việt - Nga mới thực sự có quan hệ gần gũi thông qua vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy cách xa về địa lý, nhưng Liên Xô rất gần gũi và có sức cuốn hút to lớn với người Việt Nam bởi lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều năm hoạt động trên đất nước của Lênin và đặt nền móng cho quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã nỗ lực đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vượt qua nhiều khó khăn, thử thách. Đến năm 1950, cục diện cách mạng Việt Nam có những chuyển biến căn bản theo hướng tích cực; thế và lực của ta ngày càng vững mạnh, cùng với những nỗ lực ngoại giao đã hội đủ yếu tố để các nước công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Ngày 18/01/1950 Trung Quốc tuyên bố công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 30/01/1950 Liên Xô tuyên bố công nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau đó, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây là các sự kiện rất quan trọng, không chỉ tăng cường vị thế nước ta trên trường quốc tế mà còn tạo điều kiện để Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác hỗ trợ mạnh mẽ cuộc kháng chiến của Nhân dân Việt Nam.

Khoảng giữa tháng 2/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh có chuyến thăm (không chính thức) Liên Xô. Người đề nghị Liên Xô viện trợ cho Việt Nam vật chất, nhất là vũ khí, đạn dược. Liên Xô quyết định thực hiện sự giúp đỡ Việt Nam thông qua Trung Quốc. I.V. Stalin đã thống nhất với Mao Trạch Đông "... chúng tôi đánh xong Đại chiến thế giới, còn rất nhiều vũ khí chưa dùng hết, chúng tôi có thể chở sang Trung Quốc, các đồng chí giữ lấy, trong đó có những thứ phù hợp với chiến tranh Việt Nam, các đồng chí có thể chở một số sang Việt Nam".

Sau chiến thắng Biên giới (Thu Đông 1950), hơn 750 km biên giới Việt - Trung và 6 tỉnh phía bắc được giải phóng, căn cứ địa Việt Bắc được nối thông với Trung Quốc, các nước bạn có điều kiện trực tiếp giúp Việt Nam.

Từ năm 1950, Liên Xô viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam một số mặt hàng có ý nghĩa chiến lược. Số hàng đầu tiên gồm pháo cao xạ 37 mm, một số xe vận tải mô-tô-lô-va và thuốc quân y quá cảnh qua Trung Quốc sang Việt Nam(1). Năm 1952, ta đề nghị Liên Xô viện trợ 10 tấn thuốc sốt rét (ký ninh), Liên Xô cấp tốc gửi ngay 500 kg. Cũng năm 1952, ta đề nghị Liên Xô viện trợ pháo cao xạ 37 mm cho 4 trung đoàn (144 khẩu và 10 cơ số đạn/khẩu), 72 khẩu pháo 76,2 mm và 10 cơ số đạn/khẩu, 200 khẩu súng phòng không 12,7 mm và 10 cơ số đạn/khẩu và đào tạo giúp 50-100 du học sinh. Liên Xô đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu của Việt Nam(2).

Tính chung, từ 5/1950 - 6/1954, Việt Nam nhận được 21.517 tấn hàng viện trợ quốc tế (gồm 4.253 tấn vũ khí đạn, 73 tấn hàng quân giới, 5.069 tấn hàng vận tải, 9.590 tấn gạo, 1.505 tấn quân trang, 157 tấn hàng quân y 200 tấn hàng thông tin, 40 tấn hàng công binh; 715 xe ô tô vận tải, 24 khẩu pháo 105 mm và 1.000 viên đạn, 48 khẩu pháo 75 mm và 32.484 viên đạn, 76 khẩu pháo cao xạ 37 mm và 51.620 viên đạn) từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác với tổng trị giá 54 triệu Rúp. Trong số vũ khí đạn, toàn bộ pháo cao xạ 37 mm (76 khẩu và đạn đi cùng), toàn bộ hỏa tiễn Kachiusa (12 dàn 6 nòng và đạn đi cùng), toàn bộ súng tiểu liên K50 và đạn đi cùng, 685/715 chiếc ôtô vận tải và một số lượng lớn thuốc kháng sinh, ký ninh là do Liên Xô viện trợ. Còn các loại vũ khí bộ binh khác, pháo 105 mm, 75 mm và lương thực là do Trung Quốc viện trợ(3).

Trong điều kiện rất khó khăn, thiếu thốn của Việt Nam khi tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, thì viện trợ quốc tế nói chung và của Liên Xô nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng nâng cao tiềm lực quân sự, sức chiến đấu của Quân đội ta. Vũ khí, trang bị của Liên Xô góp phần quan trọng nâng cao khả năng tiến công và sức cơ động của bộ đội ta trong các chiến dịch lớn. Đặc biệt, 12 dàn hỏa tiễn, pháo cao xạ 37 mm... do Liên Xô viện trợ đã góp phần tăng thêm sức mạnh tiến công của Quân đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

Như vậy, với đường lối "kháng chiến, kiến quốc" đúng đắn cùng chủ trương và nỗ lực đối ngoại sáng tạo, Đảng và Chỉnh phủ ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy và kết hợp được sức mạnh của toàn dân tộc với sức mạnh quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi cuối cùng, là nền tảng vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này.

1. Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu giữa vòng vây, Nxb QĐND, Hà Nội, 1995, tr.12.

2, 3. Các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.72-73.

Kỷ niệm 70 năm giải phóng Thủ đô, quận Hoàn Kiếm và Trung tâm Lưu trữ quốc gia tổ chức triển lãm 3D "Hỡi đồng bào Thủ đô".

Triển lãm giới thiệu đến công chúng tài liệu lưu trữ và hình ảnh minh họa về cuộc đấu tranh chống Pháp của quân dân Hà Nội từ cuối thế kỷ 19 đến năm 1954. Nhiều tài liệu lần đầu công bố như hình ảnh, bài báo về cuộc đình nghiệp tại chợ Đồng Xuân, các cuộc biểu tình của những người yêu nước chống thực dân Pháp.

Bố cục triển lãm gồm ba phần, trong đó phần một "Hà Nội cháy, khói lửa ngập trời" phản ánh giai đoạn đầu cuộc xâm lược của thực dân Pháp tại Hà Nội. Phần hai là "Hà Nội vùng đứng lên", giới thiệu cuộc đấu tranh cách mạng tại Hà Nội từ năm 1930 đến 1954. Phần ba - "Hà Nội ngày về chiến thắng", trình bày tài liệu, hình ảnh ngày giải phóng, vang mãi khúc khải hoàn ca.

Triển lãm được trình bày theo hình thức 3D thực tế ảo, khai mạc 14h ngày 20/9. Người dân có thể truy cập qua website Trung tâm Lưu trữ quốc gia một hoặc cổng thông tin điện tử UBND quận Hoàn Kiếm để xem.

Tài liệu quý về kháng chiến chống Pháp của quân dân Hà Nội năm 1949. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia một

Ban Tổ chức hy vọng triển lãm mang lại trải nghiệm thú vị cho công chúng bằng công nghệ số, cung cấp thông tin bổ ích về lịch sử Thủ đô, góp phần nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và lòng tự hào của người dân Hà Nội song hành với sự nghiệp phát triển công nghiệp văn hóa tại Thủ đô.

"Hỡi đồng bào Thủ đô!" là lời kêu gọi quen thuộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Hà Nội. Trong suốt gần một thế kỷ dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, đặc biệt từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi. Đây là tiền đề cho nhiều cuộc khởi nghĩa sau đó.

Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 dưới hình thức biểu tình của 200.000 người dân nội và ngoại thành Hà Nội đã giành thắng lợi. Từ đây, chính quyền ở Hà Nội về tay Việt Minh.

Triển lãm tái hiện không gian TP Hà Nội trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia một

Khói lửa chiến tranh tiếp tục bao trùm phố phường Hà Nội từ năm 1946 khi thực dân Pháp quay lại xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn quân, toàn dân Hà Nội kiên cường chiến đấu. Năm 1954, nhân dân Thủ đô chào đón đoàn quân tiến về giải phóng Hà Nội.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Quân đội nhân dân Việt Nam cùng nhân dân cả nước đã lập được nhiều chiến công xuất sắc.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Quân đội nhân dân Việt Nam cùng nhân dân cả nước đã lập được nhiều chiến công xuất sắc, đưa miền Bắc được giải phóng, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước./.

Các phong trào yêu nước tiêu biểu như: Phong trào Cần Vương do các văn thân, sĩ phu yêu nước lãnh đạo, diễn ra sôi nổi trong cả nước và kéo dài hơn 10 năm từ 1885 đến 1896; các cuộc nổi dậy chống quân xâm lược ở các vùng địch chiếm đóng, tiêu biểu như: khởi nghĩa Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân; các cuộc đấu tranh của nhân dân các địa phương trung du miền núi, nổi bật nhất là khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 - 1913); các cuộc khởi nghĩa: Hương Khê (1885 - 1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo; Ba Đình (1886 - 1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng đứng đầu; Bãi Sậy (1885 - 1889) do Nguyễn Thiên Thuật chỉ huy; cuộc nổi dậy ở Hưng Hóa (1885 - 1889) của Nguyễn Quang Bích; phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo; cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo.

Các văn thân, sĩ phu yêu nước, những người đứng đầu các cuộc đấu tranh đã dựa vào dân, tin tưởng vào sức mạnh và ý chí quật cường của nhân dân, trở thành ngọn cờ quy tụ, đoàn kết nhân dân chống Pháp. Truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ, nhân dân khắp cả nước tích cực đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ đất nước. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên lần lượt thất bại.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo nhân dân cả nước đứng lên chống thực dân, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cao trào cách mạng diễn ra trên khắp cả nước với khí thế sôi nổi.

9/3/1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào.

3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân.

16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật, cứu nước diễn ra mạnh mẽ.

Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước.

8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới”[1] và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đồng loạt tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.

2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vừa chống thù trong, giặc ngoài, vừa xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 6/1/1946, xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (năm 1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp xâm lược, lúc thì hòa với Pháp để đuổi Tưởng, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo, tranh thủ thời gian để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi.

Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính

23/9/1945, được sự giúp đỡ của quân đội Anh, thực dân Pháp tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Sau đó, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm nhiều địa bàn quan trọng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến.

19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phải, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.”[2]

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua 9 năm thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, ra sức xây dựng, củng cố thực lực, quân và dân ta không ngừng phát triển thế tiến công, càng đánh càng mạnh, giành những thắng lợi to lớn. Tiêu biểu như: Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông (1947), Chiến dịch Biên Giới (1950), Chiến dịch Hòa Bình (1951), Chiến dịch Đông Xuân (1951 - 1952), Chiến dịch Tây Bắc (1952), Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), làm nên thắng lợi “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, dân tộc ta phải hai lần tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Kết quả của hai cuộc kháng chiến đó tuy khác nhau nhưng đều để lại những bài học lịch sử về phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh của lòng dân, sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 hiện nay, bài học về lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết từ hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang được phát huy cao độ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành năng động, sáng tạo của Chính phủ, cả hệ thống chính trị vào cuộc, cùng sự chung sức đồng lòng muôn người như một của cả dân tộc và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, trận chiến “chống dịch như chống giặc” nhất định sẽ thắng lợi trong thời gian không xa.

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.424

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.534